Ngày 07/12/2008, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ III đã khép lại với nhiều dư âm lắng đọng. Bằng một tình cảm yêu mến Việt Nam tha thiết, hàng trăm công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học đã được các nhà khoa học, các học giả trong và ngoài nước trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, nối dài thêm nhịp cầu học thuật và tri thức văn hóa, giúp bồi đắp thêm tình cảm, cảm xúc đối với đất nước Việt Nam, đồng thời mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới có giá trị.
Giáo sư Peter Zinoman (Mỹ), Tổng Biên tập Tạp chí Việt Nam học tại Mỹ, học giả Fulbright đã dành cho Việt Nam một tình yêu sâu sắc có lẽ là bởi ông đã “làm rể” Việt Nam – vợ ông là bà Nguyễn Nguyệt Cầm, một học trò của ông từ thời ông dạy tiếng Anh tại Đại học Tổng hợp (cũ).
Giáo sư Peter Zinoman là Chủ tịch Khoa Lịch sử tại Đại học California, Berkeley. Ông từng được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh năm 2016 vì những đóng góp cho sự phát triển ngành Việt Nam học tại Mỹ. Ông bắt đầu học về Việt Nam từ năm 1987. Ngoài bản dịch “Số đỏ” cùng vợ là bà Nguyễn Nguyệt Cầm, Peter Zinoman là tác giả của The Colonial Bastille: A History Imprisonment In Vietnam, 1862 – 1940 (Ngục Bastille thuộc địa: Lịch sử tù đày ở Việt Nam, 1862 – 1940) và Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vu Trong Phung (2014). Ông cũng là đồng dịch giả của Dumb Luck: A Novel của Vu Trong Phung (2002) và là tổng biên tập sáng lập của Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam. Dự án sách hiện tại của ông hướng đến khám phá chính trị và đời sống trí thức tại Hà Nội trong những năm 1950. Ông là nhà sáng lập và từng là chủ biên của tập san nghiên cứu Journal Of Vietnamese Studies do University of California Press phát hành.
Ông đã nghiên cứu về Việt Nam học hơn 20 năm nay, lĩnh vực lịch sử Việt Nam hiện đại. Qua những công trình nghiên cứu và qua các bài giảng, ông đã truyền kiến thức và thắp lửa tình cảm với đất nước Việt Nam cho hàng trăm sinh viên Mỹ.
Năm 1999, Giáo sư đã phát hiện 20 tác phẩm báo chí và một cuốn truyện ngắn bị cho là thất lạc của Vũ Trọng Phụng tại Thư viện quốc gia Pháp, sau đó NXB Hội Nhà văn đã giới thiệu những tác phẩm quý giá này trong ấn phẩm “Vẽ nhọ bôi hề” năm 2000.
Ông đã lựa chọn các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng để biên dịch và xuất bản các sách dịch. Theo ông, Vũ Trọng Phụng là một nhà văn lớn của Việt Nam. Ông hy vọng, văn học sẽ là một “cửa sổ” hấp dẫn để thông qua đó, mọi người sẽ hiểu hơn về lịch sử, xã hội và văn hóa Việt Nam hơn. Những tác phẩm bằng tiếng Anh về Vũ Trọng Phụng còn rất ít, vì vậy, ông muốn người Mỹ và người châu Âu biết nhiều hơn về nhà văn này.
Lý giải về lựa chọn nghiên cứu tại Việt Nam, Giáo sư chia sẻ rằng bố của ông công tác ở Bộ Ngoại giao và đã làm việc nhiều năm ở khu vực Đông Nam Á, vì vậy, từ bé, ông đã dành nhiều sự quan tâm cho khu vực Đông Nam Á nhỏ bé này. Năm 1986 ông vào đại học, khi đó Việt Nam mới bước vào công cuộc đổi mới và ông đã chọn tới Việt Nam để nghiên cứu. Lúc ấy, ông rất tò mò và muốn biết công cuộc đổi mới này sẽ ảnh hưởng như thế nào tới Việt Nam, nhưng càng nghiên cứu, ông càng thấy bị cuốn hút, hấp dẫn bởi những giá trị văn hóa tiềm ẩn của đất nước này. Quá trình nghiên cứu Việt Nam trước và sau đổi mới đã giúp ông hoàn thành tiến sĩ (năm 1987) tại Trường Đại học Cornell (Mỹ) và năm 1990, ông sang Việt Nam để làm đề tài “Lịch sử Việt Nam dưới chế độ Pháp”…
Giáo sư Peter Zinoman được biết đến nhiều nhất với tư cách là Tổng Biên tập Tạp chí Việt Nam học tại Mỹ. Từ năm 2006, tạp chí ra đều đặn 1 năm 3 số, mỗi số dày trên 250 trang. Tạp chí đăng tải những công trình nghiên cứu về Việt Nam ở tất cả các lĩnh vực với tinh thần khách quan, khoa học và những bài viết đều không có nhuận bút. Ông cho biết ở Mỹ ngày càng có nhiều sinh viên nghiên cứu và muốn tìm hiểu về Việt Nam và đây sẽ là cơ hội rất tốt để thúc đẩy ngành Việt Nam học phát triển tại Mỹ.
Nhắc đến Việt Nam học tại Mỹ trước năm 1975, người ta thường nghĩ tới chiến tranh, thậm chí cả khi nghiên cứu về thời Lý, Trần ở Việt Nam họ vẫn cứ nghĩ đến chiến tranh. Từ sau 1975 đến khoảng năm 1985 thì ngành Việt Nam học gần như không tồn tại nữa, nhà nước không đầu tư tài chính cho nghiên cứu, nhân dân thì không quan tâm vì nỗi mặc cảm lớn do cuộc chiến tranh này gây ra khiến họ muốn quên tất cả. Trước năm 1975, ngành Việt Nam học tại Mỹ cũng tương đối mạnh, nhưng đó là một “kiểu” Việt Nam học chịu ảnh hưởng khá nặng bởi quan điểm chính trị của Mỹ nên không thỏa đáng. Giáo sư bắt đầu học tập và nghiên cứu về Việt Nam từ năm 1987 và Giáo sư thuộc thế hệ đầu tiên sau chiến tranh nghiên cứu Việt Nam học.
Việt Nam học tại Mỹ bắt đầu được khôi phục từ năm 1987, có thể kể tới hai lý do: Thứ nhất là, công cuộc Ðổi mới ở Việt Nam. Đó là cơ hội để người Mỹ có thể sang Việt Nam nghiên cứu, học tập, có điều kiện tiếp xúc với các học giả Việt Nam. Hơn nữa, chất lượng nghiên cứu về xã hội, lịch sử, văn học, văn hoá… ở Việt Nam thời kỳ này cũng phát triển tương đối nhanh.
Thứ hai là ở Mỹ có một thế hệ Việt Kiều mới, yếu tố này cũng rất quan trọng. Nếu đọc các tác phẩm học thuật về Việt Nam viết ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc trước những năm 90 của thế kỷ XX, thì tất cả những người viết đều là người da trắng. Cũng có một số Việt Kiều song rất ít. Sau năm 1975 xuất hiện một cộng đồng Việt Kiều ở Mỹ và phát triển nhanh về số lượng. Thế hệ đầu gặp nhiều khó khăn khi sinh sống ở vùng đất mới, nhưng con cái họ thì khoảng năm 1990, 1991 đã hướng sự quan tâm về nước mẹ của họ, bắt đầu có một nhóm nhỏ Việt Kiều trẻ vào đại học và chọn nghiên cứu về lịch sử, văn học, dân tộc học, xã hội học Việt Nam. Ba phần tư số sinh viên của ông là Việt Kiều, họ giỏi hơn thế hệ nghiên cứu Việt Nam học trước 1975 bởi họ có lợi thế ngôn ngữ. Hơn nữa, quan điểm chính trị của họ lại khá cởi mở. Cuối cùng, họ có xu hướng quan tâm nhiều đến miền Nam. Các sinh viên của ông hơn một nửa chọn nghiên cứu về miền Nam. Sinh viên ngành Việt Nam học ở các trường khác như Ðại học Cornell, Ðại học Michigan, Ðại học Hawaii, Ðại học Yale cũng vậy.
Theo Giáo sư, có 2 chuyên ngành thuộc Việt Nam học ở Mỹ phát triển nhất là Dân tộc học và Lịch sử. Dân tộc học mạnh nhất vì được nhiều quỹ đầu tư. Khi ông làm Tạp chí Journal of Vietnamese Studies (Tạp chí Việt Nam học) thì ông cũng nhận được nhiều bài về Dân tộc học nhất và Lịch sử cũng tương đối. Hiện nay Giáo sư, vợ ông và một số người khác bắt đầu nghiên cứu sâu về văn học Việt Nam. Xã hội học, Kinh tế học, Chính trị học đang được quan tâm nhiều.
Số lượng sinh viên theo ngành Việt Nam học hiện nay đông hơn bao giờ hết. Ðại học California có số sinh viên theo ngành này đông nhất, Ðại học Cornell bằng nửa trường và khoảng 10 trường đại học ỏ Mỹ có ngành này. Việc nghiên cứu Việt Nam học của các trường có nhiều triển vọng. Việt Nam học phát triển nhanh và bắt đầu được nhà nước đầu tư, các trường có học bổng cho sinh viên sang Việt Nam nghiên cứu.
Việt Nam học phát triển nhanh ở Mỹ từ năm 1987, rất nhiều nhà nghiên cứu trẻ viết bài về Việt Nam. Từ năm 1980 đến 1989, ở Mỹ có Tạp chí Vietnam Forum của ông Huỳnh Sanh Thông, nhưng đến năm 1990 tạp chí đã phải đóng cửa vì nhiều vấn đề. Suốt từ đó đến tận năm 2006 không có một tạp chí nào, đó là một khó khăn cho người người nghiên cứu. Trong hệ thống giáo dục ở Mỹ, ai muốn thăng tiến trong nghề nghiệp, trở thành tiến sỹ, giáo sư và ai muốn duy trì vị trí đã có thì hàng năm phải công bố các công trình nghiên cứu của mình. Thế mà đất cho họ công bố lại quá hạn hẹp. Ở Mỹ hiện có Tạp chí Châu Á, có Tạp chí Ðông Nam Á rất uy tín nhưng không thể đủ cho nhu cầu. Hơn nữa, ở đây đã có nhiều tạp chí riêng về các nước Châu Á như: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Indonexia, Thái Lan, Philipin, Campuchia… nhưng chưa có một tờ dành riêng cho Việt Nam. Vậy nên đó là lý do mà ông đã thành lập Tạp chí Việt Nam học do ông làm Tổng biên tập. Chất lượng của tạp chí được đảm bảo nghiêm ngặt nên các bài viết được chọn lựa nghiêm túc. Các công trình nghiên cứu về Việt Nam trên nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, văn học, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sẽ được đăng tải với tinh thần khách quan, khoa học, không chịu ảnh hưởng của các thiên kiến chính trị.